• SỐNG - LÀM VIỆC THEO ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC.
  • LÒNG KIÊN CƯỜNG - BẤT KHUẤT.
  • NHỮNG NHÂN VẬT TIÊU BIỂU.

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2024

Huyền thoại về Anh hùng LLVT nhân dân La Văn Cầu: Ngày ấy - bây giờ

     Dù đã bước sang tuổi 88 song người Anh hùng Cách mạng năm nào vẫn tâm niệm chừng nào trái tim còn đập, ông vẫn còn muốn được cống hiến cho Tổ quốc. Ông là một trong 10 gương mặt tiêu biểu được đề nghị vinh danh "Công dân Thủ đô ưu tú năm 2019".

Chú thích ảnh
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân La Văn Cầu tại nhà riêng. Ảnh: Phương Anh/TTXVN

Trong căn nhà nhỏ nằm trên phố Tây Sơn, quận Đống Đa, Hà Nội, Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân La Văn Cầu xuất hiện trong bộ quân phục giản dị, với nụ cười ấm áp, thân thiện, tác phong nhanh nhẹn, khỏe hơn nhiều so với tuổi của mình.

Những tấm Huân, Huy chương, Bằng khen của Nhà nước trao tặng được Anh hùng La Văn Cầu treo trang trọng trong căn nhà. Do thành tích trong chiến đấu, ngày 19/5/1952 ông được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, khi đang là tiểu đội phó thuộc Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Cùng năm đó, ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc theo Sắc lệnh số 107-SL.

Được phong hàm Đại tá từ năm 1985, ông đã được tặng Huân chương quân công hạng Nhì, hạng Ba, Huân chương kháng chiến hạng Nhất, từng là Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tên ông còn được đặt cho một con đường tại phường 2, thành phố Vũng Tàu, một con phố ở Nam Định và một khu phố ở thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. 

Anh hùng La Văn Cầu sinh năm 1931, ở huyện Trùng Khánh (Cao Bằng), người dân tộc Tày. Với khát khao được cầm súng giết giặc giải phóng đất nước, dù mới 16 tuổi, La Văn Cầu đã khai tăng lên 18 tuổi để được vào bộ đội. Lúc đó là năm 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ, thiếu thốn. Nhưng niềm vui, ý chí đã giúp cho chàng trai trẻ La Văn Cầu vượt qua khó khăn, vươn lên rèn luyện thành một chiến sĩ gương mẫu, giàu lòng nhân ái, được đồng đội rất quý mến. 

Bồi hồi xúc động, Đại tá La Văn Cầu đã kể về trận đánh đồn Đông Khê 2, năm 1950, đầy khốc liệt và bi tráng. Những đồng đội của ông đã hy sinh, ông là người cuối cùng may mắn sống sót, với một cánh tay lành lặn. Ông nói: "Mình phải hoàn thành nhiệm vụ thay cho các đồng đội đã ngã xuống".

Ông nhớ lại: "Tổ có 5 người do tôi làm Tổ trưởng. Lần đầu tiên chúng tôi đánh bộc phá - đơn vị bộc phá đầu tiên. Bộc phá có ít nên tôi có sáng kiến lấy mìn của địch để phá hàng rào. Lúc đó, địch bắn xuống như mưa, nhưng ai cũng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nên dù có bị thương cũng không dám nói ra vì sợ mọi người nhụt chí.

Đến khi không còn trụ nổi nữa họ mới nói: "Chúng tôi bị thương nặng không làm được nhiệm vụ nữa. Các anh cố gắng làm xong nhiệm vụ và trả thù cho chúng tôi." Khi cách lô cốt địch khoảng 15 thước, hai người nữa lại bị địch bắn trúng và hy sinh. Ôm hôn vĩnh biệt các anh, lại thấy căm thù giặc hơn, tôi quyết phải trả thù cho các anh và làm cho xong nhiệm vụ."

Ông bồi hồi kể: "Đạn bắn trúng cánh tay phải và má phải của tôi. Lúc đó, tưởng chết, nên tôi cố hô Hồ Chủ tịch muôn năm, Việt Nam độc lập muôn năm. Khi tỉnh lại, một bên mình đã tê đi, cánh tay phải lủng lẳng, má phải mất. Lại nghĩ đến nhiệm vụ, tôi vùng dậy tìm gói bộc phá, nhưng lúc này rất khó đi. Tôi quay xuống tìm người nhờ chặt cánh tay để tiếp tục làm nhiệm vụ. Quả bộc phá nặng 12 kg nhưng tay trái tôi vẫn đủ sức để xách.

Qua giao thông hào thứ ba, tôi lại nhảy hụt lần nữa, vì sức đã yếu. Trong khi đó, tiếng súng liên thanh của địch cứ nổ ran, những lỗ châu mai của địch nhả đạn liên hồi - ở dưới giao thông hào tôi đã quá mệt. Nhớ đến lời Ban Chỉ huy dặn phải phá cho bằng được lô cốt này, vì Đông Khê là vị trí rất quan trọng, bảo vệ đường số 4. Lô cốt này bắn xuống đường Thất Khê và yểm hộ bốt Cam Vây. Nếu không phá được lô cốt này quân ta khó tiến. Nghĩ thế, tôi lại thấy hăng, lại xách bộc phá nhảy lên".

"Tôi tiến đến gần chân lô cốt, men lại lỗ châu mai, chờ cho địch thay băng đạn. Khi súng địch tạm im không bắn, tôi xông lại, đút quả bộc phá vào lỗ châu mai. Địch ở trong lấy báng súng đẩy ra hai lần. Lần đầu, do tay yếu không đẩy vào sâu được nên địch lại đẩy ra. Thấy thế tôi nảy ra sáng kiến lấy chân đẩy quả bộc phá vào. Lần này, nhờ có sức mạnh của chân, quả bộc phá được đẩy vào sâu, bịt chặt lấy lỗ châu mai, địch không đẩy ra được nữa.

Chạy ra xa lô cốt độ mươi mười lăm thước, tôi giật nụ xòe. Quả bộc lôi nổ rất to. Tôi bị sức ép của quả bộc phá làm ngất đi mấy phút. Lúc tỉnh lại, lô cốt đã tan tành, chỉ còn một đống gạch trắng xóa, bóng các anh xung kích từng loạt, từng loạt lướt qua mắt tôi nhảy vào vị trí Đông Khê. Tôi thấy sung sướng quá vì đã trả thù được cho bốn bạn trong tổ của mình".

Tấm gương chiến đấu của Anh hùng La Văn Cầu đã cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công trong toàn quân, trở thành lá cờ đầu trong phong trào thi đua sử dụng bộc phá công đồn - một hình thức chiến thuật mới của quân đội ta từ Chiến dịch Biên giới năm 1950. 

Chú thích ảnhNhững thành tích của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân La Văn Cầu tại nhà riêng. Ảnh: Phương Anh/TTXVN

Kể lại những kỷ niệm xưa về các trận đánh lịch sử, Anh hùng La Văn Cầu không khỏi xúc động nghẹn ngào khi nhớ về những đồng đội đã hy sinh trong trận đánh đồn Đông Khê, mở màn cho Chiến dịch Biên giới. Ông nói, chừng nào trái tim còn đập, ông vẫn còn muốn được cống hiến. Đây là điều ông luôn tâm niệm trong suốt cuộc đời. Mặc dù chiến tranh đã qua đi, song Anh hùng La Văn Cầu vẫn mong được góp một phần nhỏ bé vào công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước ngày càng giàu đẹp, hùng cường.

Các cụ nói "Giàu hai con mắt khó đôi bàn tay", đối với Anh hùng La Văn Cầu cũng thế, tay phải là tay làm tay ăn, mất tay phải rồi tay trái phải cáng cho tay phải. Mặc dù có sự bất tiện, khó khăn, song ngày tháng trôi qua, ông nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh mới, từ bắn súng tới cuốc đất ông đều làm được. Ông luôn xác định mình phải tự lực, cái nào khó quá mới nhờ, bởi lẽ đó là cuộc sống, không thể ỷ lại vào người khác. Phẩm chất kiên cường, tự lực của ông đại diện cho phẩm chất của bao thế hệ bộ đội Cụ Hồ. Trong cuộc sống, ông luôn lạc quan, với nghị lực, sự kiên cường, mọi khó khăn ông đều vượt qua. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân La Văn Cầu là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo.

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2024

Dương Quảng Châu - Người chiến sĩ quân báo mưu trí, dũng cảm

     Là chiến sĩ thuộc Đại đội Quân báo, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, Dương Quảng Châu luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí tiếp cận mục tiêu, điều tra tỉ mỉ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Hiện nay, tại Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ, chân dung Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Dương Quảng Châu được treo trang trọng cùng với các chân dung Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân khác trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, như nhắc nhở thế hệ mai sau về những cống hiến, hy sinh của những con người “dù bom đạn xương tan, thịt nát/ Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”

vvvvvvvvvvvvvvvvvv
                                             Anh hùng Dương Quảng Châu

   * Người chiến sĩ quân báo gan dạ, mưu trí, dũng cảm

Đồng chí Dương Quảng Châu (bí danh là Dương Ngọc Chiến), sinh năm 1929, quê ở xã Quảng Châu, huyện Phù Tiên (nay thuộc xã Hoàng Hanh, thành phố Hưng Yên), tỉnh Hưng Yên.

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do hoàn cảnh cùng cực, nghèo khó, gia đình Dương Quảng Châu phải bỏ quê lên Thái Nguyên làm ruộng thuê. Từ nhỏ, đồng chí đã phải sống cuộc sống khó khăn, vất vả để mưu sinh.

Tháng 5/1948, đồng chí Dương Quảng Châu nhập ngũ, tham gia vào bộ đội địa phương, sau đó chuyển sang bộ đội chủ lực. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí đã tham gia nhiều chiến dịch từ Chiến dịch Biên giới đến Chiến dịch Điện Biên Phủ. Là chiến sĩ thuộc Đại đội Quân báo, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308, Dương Quảng Châu luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí tiếp cận mục tiêu, điều tra tỉ mỉ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Năm 1949, một mình đồng chí vào trinh sát bốt Bồng Lai, Hạ Trì (Hà Đông). Trong suốt 3 ngày bị địch bao vây, dù bị nhịn đói nhưng đồng chí vẫn khéo léo giả làm “phu” (người lao động bị bắt đi làm lao dịch thời phong kiến, thực dân) để lọt vào bốt trinh sát, rồi tìm cách thoát ra trở về đơn vị báo cáo tình hình.

Trong Chiến dịch Biên giới năm 1950, trên đường hành quân từ Thất Khê về Khâu Lương gặp tàn binh địch trốn trong rừng, Dương Quảng Châu đã cùng đồng đội tổ chức bao vây, vừa nổ súng uy hiếp, vừa gọi hàng, bắt được 4 tù binh.

Năm 1953, đơn vị giao nhiệm vụ điều tra bốt Thái Đào, Bắc Giang, Dương Quảng Châu chỉ đạo một mũi trinh sát, luồn lách vượt qua hai con đường thường xuyên có lính tuần tra, một con sông Máng và 11 hàng rào, vào sát tận nơi điều tra nắm bắt tình hình.

Cuối năm 1953, trên đường truy kích địch ở Mường Ngòi, đồng chí chỉ huy một tiểu đội vượt sông truy đuổi quân địch. Tổng cộng trong ngày hôm đó, đồng chí Dương Quảng Châu đã 9 lần dẫn đầu tiểu đội đánh tan một tiểu đoàn địch. Khi hết đạn, đồng chí đã lấy súng của địch và tiếp tục truy lùng những tên còn lại đang lẩn trốn.

Một lần khác ở Nậm Bạc, tiểu đội đồng chí truy kích địch từ sáng đến gần tối, vừa dừng lại ăn cơm thì 4 tên địch đột ngột xuất hiện. Tên đi đầu giương súng định bắn, Dương Quảng Châu nhanh như cắt gạt được khẩu súng của địch và dùng dao găm loại khỏi vòng chiến đấu tên đi đầu. Ba tên địch còn lại hốt hoảng xin hàng.

Hôm sau, khi tổ của Dương Quảng Châu đang chuẩn bị đánh Nậm Ngà, một đại đội địch ập đến. Đồng chí chỉ huy đồng đội nấp vào các gốc cây bắn trả quyết liệt và tiêu diệt được phần lớn lực lượng của địch. Sau đó, đơn vị ở phía sau lên tiếp ứng cùng tổ của đồng chí tiến công bao vây địch. Lợi dụng lúc địch bị đánh bất ngờ, đồng chí bắt 1 tù binh, rồi gọi hàng được 46 tù binh khác, thu 43 khẩu súng, cùng đơn vị loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội của địch.

Trong thời gian chuẩn bị Chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị đi làm nhiệm vụ vắng, đồng chí cùng một đồng chí khác bị sốt rét nằm nhà. Vừa dứt cơn sốt, Dương Quảng Châu dậy lau súng thì thấy một toán địch đi từ hướng Lai Châu về. Đoán là tàn binh địch mới bị quân ta đánh tan tác hôm trước, đồng chí liền mưu trí hô to để nghi binh rồi xông ra chặn bắt được 22 tên địch, thu 8 súng. Hôm sau, đồng chí còn chỉ huy một tổ lùng bắt thêm 10 tên địch.

   * Góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu      

Trong đợt tấn công thứ 2, quân đội ta vừa đào giao thông hào vừa bắn vào vị trí 206 (cách sân bay Mường Thanh 100m về phía Tây). Ảnh: Tư liệu TTXVN


Trong Đợt 2 Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308 được giao nhiệm vụ đánh chiếm cứ điểm 206, do Đại đội Âu-Phi số 4 được trang bị hỏa lực mạnh đóng giữ. Để đánh chiếm cứ điểm 206, Trung đoàn 36 xác định xây dựng trận địa theo chiến thuật vây lấn và tổ chức đào các chiến hào. Khi chiến hào đào được khoảng 300 mét thì địch phát hiện và bắt đầu đối phó với quân ta. Chúng dùng pháo binh, súng cối bắn chặn đường hào của bộ đội ta. Khi quân ta đã vượt qua tầm pháo cối của địch, chúng lại dùng súng đại liên bắn đan đi đan lại trên đầu đường hào, ngăn cản bước tiến của ta. Bất chấp sự ngăn cản của địch, bộ đội ta vẫn ngày đêm đào hào tiến sát cứ điểm 206.

Sáng ngày 19/4/1954, trận địa chiến hào của Trung đoàn 36 hình thành theo ba mũi đều đã áp sát hàng rào cứ điểm 206. Nếu để mất cứ điểm 206 tức là sẽ mất chốt gác cửa quan trọng trấn giữ sân bay Mường Thanh, nên quân địch cố giữ cứ điểm 206 bằng mọi giá. Tướng De Castries (Đờ Cát) ra lệnh cho chỉ huy Đại đội Âu-Phi số 4 đóng trong cứ điểm 206 phái một trung đội ra lấp chiến hào của ta. Đồng thời, De Castries cũng ra lệnh cho hai xe tăng và hai trung đội bộ binh vượt qua sân bay Mường Thanh tiến ra phối hợp, dưới sự yểm hộ của pháo địch ở Mường Thanh và Hồng Cúm. Sau nửa giờ chiến đấu quyết liệt với bộ đội ta, chúng đã chiếm được khoảng 50 mét chiến hào. Những tên lính lê dương hùng hục dùng xẻng, cuốc, thuốc nổ lấp chiến hào của quân ta. Lúc này, tiểu đội quân báo của Dương Quảng Châu và một trung đội bảo vệ trận địa thuộc Đại đội 395 đã anh dũng bám chặt những đoạn hào phía sau, đánh trả địch quyết liệt. Một quả pháo nổ gần làm Dương Quảng Châu bị gãy chân, không di chuyển được, nhưng đồng chí vẫn bình tĩnh nằm tại chỗ giao nhiệm vụ cho tổ và động viên đồng đội chiến đấu, giữ vững trận địa. Chiều ngày 19/4/1954, bọn lính lê dương trong cứ điểm 206 ngao ngán tuyệt vọng nhìn những đường hào của ta bao vây xung quanh, cắt đứt mọi liên lạc của chúng với bên ngoài.
Trận địa hào được xây dựng vào ban đêm, ngụy trang rất kỹ và triển khai cùng một lúc trên toàn thể mặt trận nên đã phân tán được sự đánh phá của Pháp. Trong ảnh: Trận chiến đấu ác liệt tại vị trí 206. Ảnh: Tư liệu TTXVN


Đêm ngày 22/4/1954, Trung đoàn 36 được lệnh tiến công cứ điểm 206. Ngay từ loạt pháo đầu tiên, quân ta đã đánh trúng hầm chỉ huy và hầm thông tin, cắt đứt liên lạc của địch với tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cho bộ binh ta từ 3 hướng tiến công vào trung tâm cứ điểm 206. Đến 2 giờ 10 phút ngày 23/4/1954, quân ta tiêu diệt và bắt toàn bộ quân địch, làm chủ hoàn toàn cứ điểm 206. Thắng lợi của trận đánh này đã tạo điều kiện cho các lực lượng của ta thắt chặt vòng vây, tạo thế cho chiến dịch phát triển chuyển sang Đợt 3, tổng công kích, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi chiến dịch.

Trong khi nằm điều trị, Dương Quảng Châu đã gương mẫu tham gia lao động, góp phần xây dựng bệnh xá và giúp đỡ nhân dân, xung phong vận động 60 đồng chí thương binh còn khoẻ cùng với 50 đồng bào đắp đoạn đê bị ngập, cứu lụt được 480 mẫu lúa.

Với những chiến công và thành tích xuất sắc trong chiến đấu, đồng chí Dương Quảng Châu được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công hạng Nhì, danh hiệu Chiến sĩ thi đua của Đại đoàn và được Bác Hồ tặng Huy hiệu của Người.

Ngày 7/5/1956, đồng chí Dương Quảng Châu được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng Ba.

Hiện nay, tại Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ ở thành phố Điện Biên Phủ, chân dung Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Dương Quảng Châu được treo trang trọng cùng với các chân dung Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân khác trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, như nhắc nhở thế hệ mai sau về những cống hiến, hy sinh của những con người “dù bom đạn xương tan, thịt nát/ Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”.

Đặc biệt, tháng 4/2024, nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Dương Quảng Châu được thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên) đặt tên cho một trong 24 tuyến đường mang tên các Anh hùng được phong tặng trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Anh hùng Bế Văn Đàn - Lấy thân mình làm giá súng

 “Ngã xuống ở Mường Pồn anh đâu biết có mùa cam/ Anh chỉ thấy dây thép gai đồn giặc/ Tôi yêu những con người chưa hình dung ra hạnh phúc/ Lúc đồng đội cần, dẫu chết chẳng từ nan…”. Đây là những câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên viết về một người con yêu quý của nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã anh dũng hy sinh, góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Đó là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Bế Văn Đàn.

vvvvvvvvvvvvvvvvv
                                         Anh hùng Bế Văn Đàn

 * Bế Văn Đàn - Người anh hùng giữ mãi những mùa cam Mường Pồn

Đồng chí Bế Văn Đàn sinh năm 1931, là người dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh, huyện Phục Hòa (nay là xã Bế Văn Đàn, huyện Quảng Hòa), tỉnh Cao Bằng. Đồng chí sinh ra trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng, bố làm công nhân thợ mỏ, mẹ mất sớm khi Bế Văn Đàn còn nhỏ. Chứng kiến nỗi đau của người dân mất nước, đồng chí đã tham gia lực lượng du kích địa phương.

Tháng 1/1949, Bế Văn Đàn xung phong vào bộ đội và được biên chế vào tiểu đội bộ binh thuộc Đại đội 674, Tiểu đoàn 251, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Đồng chí đã tham gia nhiều chiến dịch. Trong chiến dịch nào, đồng chí cũng luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, vượt mọi khó khăn, gian khổ, không quản ngại hy sinh, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta lúc bấy giờ đang ở giai đoạn quyết liệt. Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, Bế Văn Đàn được phân công làm liên lạc viên cho tiểu đoàn và cùng đơn vị tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong cuộc chiến ác liệt ở Mường Pồn (nay thuộc huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), một đại đội của tiểu đoàn Bế Văn Đàn được giao nhiệm vụ bao vây quân Pháp ở Mường Pồn. Lúc đó, thấy lực lượng của quân ta ít, quân Pháp tập trung hai đại đội có pháo binh yểm trợ liên tiếp phản kích, hòng đánh bật quân ta. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt, quân Pháp liều chết xông lên, quân ta kiên quyết ngăn chặn chốt giữ.

Nhận lệnh của tiểu đoàn phải giữ vững Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, tạo điều kiện các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch, mặc dù vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo mệnh lệnh trên, đồng chí đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ liên lạc xuống đại đội. Bế Văn Đàn đã dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc của địch xuống đại đội  chiến đấu, truyền đạt mệnh lệnh của tiểu đoàn: “Bằng mọi giá phải giữ chân địch để đơn vị lớn triển khai lực lượng”. Trận chiến đấu ở Mường Pồn diễn ra ngày càng ác liệt hơn, Bế Văn Đàn được lệnh ở lại đại đội trực tiếp chiến đấu cùng đồng đội, siết chặt vòng vây địch.

Tranh vẽ “Anh hùng Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng trong trận chiến đấu ở Mường Pồn”. Ảnh tư liệu

Ngày 12/12/1953, quân Pháp tổ chức phản kích, mở đường ra. Đơn vị bị thương vong nhiều, chỉ còn lại 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng đồng chí vẫn kiên cường giữ vững vị trí chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ đã hy sinh. Còn khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng không bắn được vì không có chỗ đặt súng, tầm nhìn bị địa hình che khuất. Thấy tiếng súng của ta ít đi, quân địch lại ào ào phản kích, tình thế gay cấn và cấp bách hơn bao giờ hết.

Trong tình thế hết sức khẩn trương đó, Bế Văn Đàn đã lao nhanh đến chỗ đồng chí Pù và ngồi xuống trong tư thế quỳ, cầm khẩu trung liên đặt hai chân đế lên hai vai mình giữ chặt và hô đồng đội bắn ngay. Đồng đội đều bất ngờ và xúc động, đồng chí Pù còn chần chừ chưa dám bóp cò. Trong giây lát, như hiểu được suy nghĩ của người bạn chiến đấu, Bế Văn Đàn hô to: “Kẻ thù đang trước mặt, đồng chí bắn đi, trả thù cho đồng đội!”. Chu Văn Pù nghiến răng nổ súng, trút lửa về phía địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên. Đợt phản kích của quân địch bị bẻ gẫy hoàn toàn.

Quân ta tiếp tục giữ vững trận địa chiến đấu. Nhưng trong thời gian đứng làm giá súng, đồng chí Bế Văn Đàn tiếp tục bị 2 vết thương nữa và anh dũng hy sinh khi hai tay còn ghì chặt chân súng trên vai mình. Tấm gương dũng cảm của Bế Văn Đàn đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận hăng hái thi đua lập công, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Hình ảnh Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng trở thành một trong những tấm gương tiêu biểu trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội mừng công của đơn vị, đồng chí Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, và bình bầu là Chiến sĩ thi đua số một của Đại đoàn 316.

Với thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955, đồng chí Bế Văn Đàn được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng Nhì.

Nghĩa trang liệt sỹ A1 có 644 ngôi mộ, duy chỉ có bốn ngôi mộ lớn có bia khắc đủ họ tên là của các anh hùng: Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót và Trần Can. Trong nghĩa trang còn có nơi ghi danh các anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh tại chiến trường Điện Biên Phủ. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Tháng 5/1959, Đảng, Nhà nước và nhân dân địa phương đã tiến hành di chuyển hài cốt của đồng chí Bế Văn Đàn tại Mường Pồn, nơi đồng chí hy sinh, về Nghĩa trang Liệt sĩ A1 ở thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.

* Khu lưu niệm Anh hùng, liệt sỹ Bế Văn Đàn được công nhận là Di tích lịch sử

Ngôi nhà của Anh hùng Bế Văn Đàn được phục dựng nằm trong cụm Di tích lịch sử địa điểm lưu niệm Anh hùng Liệt sỹ Bế Văn Đàn. Ảnh: Chu Hiệu - TTXVN

Tháng 7/2018, khu nhà lưu niệm Anh hùng, liệt sỹ Bế Văn Đàn, thiết kế theo kiểu nhà sàn truyền thống, được khởi công tại huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. Với tổng diện tích hơn 2.800 m2, khu nhà lưu niệm Anh hùng, liệt sỹ Bế Văn Đàn bao gồm: nhà trưng bày, đón tiếp; đền tưởng niệm; đền thờ; cột cờ; cổng; hàng rào; khu sân vườn... có tổng mức đầu tư trên 7,3 tỷ đồng. Đây là địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng; nơi đón tiếp, tham quan học tập và nghiên cứu về truyền thống lịch sử của đông đảo tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh Cao Bằng.

Với những giá trị về lịch sử, ngày 8/12/2023, Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng quyết định công nhận Khu lưu niệm Anh hùng, liệt sỹ Bế Văn Đàn là Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Di tích lịch sử địa điểm lưu niệm Anh hùng Liệt sỹ Bế Văn Đàn là địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống cách mạng. Ảnh: Chu Hiệu - TTXVN

Ngày 19/12/2023, Ủy ban Nhân dân huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng tổ chức Lễ đón Bằng công nhận địa điểm lưu niệm Anh hùng, liệt sỹ Bế Văn Đàn là Di tích lịch sử cấp tỉnh.

Bên cạnh đó, để tưởng nhớ và tri ân, tên của Anh hùng, liệt sĩ Bế Văn Đàn được đặt cho nhiều đường phố và ngôi trường ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước.

Di tích Mường Pồn nơi Anh hùng Bế Văn Đàn hy sinh luôn là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần chiến đấu quả cảm của thế hệ cha ông ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.

Anh hùng Chu Văn Mùi - vẹn nguyên ký ức hào hùng của Chiến dịch Điện Biên Phủ

     Bắc Giang (TTXVN 5/5/2024) Ông Chu Văn Mùi, năm nay 98 tuổi, hỏi chuyện câu nghe rõ câu không, nhưng khi nhắc đến Chiến dịch Điện Biên Phủ, đôi mắt ông bừng sáng, những kỷ niệm lại quay về trong tâm trí chiến sỹ Điện Biên.
Học sinh Trường THCS Thượng Lan, huyện Việt Yên đến thăm hỏi và nghe Anh hùng Chu Văn Mùi kể chuyện. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã cách đây 70 năm, nhưng trong tâm trí ông Chu Văn Mùi, người Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, ký ức về một thời khói lửa gian khổ, hào hùng của dân tộc Việt Nam vẫn vẹn nguyên cảm xúc.

Một ngày cuối tháng Tư, trong căn nhà khang trang nằm ngay mặt đường ở thôn Hà Thượng, xã Thượng Lan, thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, ông Chu Văn Mùi năm nay đã 98 tuổi, sức khỏe yếu đi rất nhiều, hỏi chuyện câu nghe rõ câu không, nhưng khi nhắc đến Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, đôi mắt ông bừng sáng. Những kỷ niệm, trận đánh nơi lòng chào Mường Thanh lại quay về trong tâm trí người chiến sỹ Điện Biên năm xưa.

Chu Văn Mùi sinh năm 1926 trong một gia đình thuần nông. Ngày 3/7/1949, lúc đó ông 23 tuổi, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, ông đi bộ đội, sau đó được biên chế vào Tiểu đoàn 38, Trung đoàn 102, Đại đoàn 308 - đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trước khi tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông tham gia nhiều chiến dịch lớn của Quân đội ta như Chiến dịch Biên giới, Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Chiến dịch Hòa Bình… Trong mỗi chiến dịch, ông đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau, từ chiến sỹ nuôi quân, chiến sỹ xung kích, pháo thủ, tiểu đội trưởng súng cối đến tiểu đội trưởng thông tin... Ở bất kỳ vị trí công tác nào, ông đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Năm 1952, Chu Văn Mùi được đưa đi đào tạo lớp vô tuyến điện. Từ đó, ông chuyển sang đơn vị vô tuyến điện thuộc Trung đoàn 88, Sư đoàn 308. Năm 1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra, ông Chu Văn Mùi là chiến sỹ vô tuyến điện, trực thuộc Ban tham mưu, được giao đảm nhận nhiệm vụ kết nối thông tin liên lạc giữa trung đoàn trưởng với chỉ huy đại đoàn.

Ông Chu Văn Mùi không thể nào quên trận đánh trên đồi A1. Ông nhớ lại, lúc đó, quân ta gặp phải hỏa lực rất mạnh của địch, chịu nhiều thương vong; điện thoại, vô tuyến từ đại đội trưởng đến tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn bị mất liên lạc. Ông Chu Văn Mùi cùng tổ đội của mình được lệnh nối lại đường dây liên lạc tại đồi A1, vì sự có mặt của điện thanh lúc này là vô cùng quan trọng, không có liên lạc, quân ta không thể thắng được.
Anh hùng Chu Văn Mùi cùng quyển hồi ký. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Bằng sự gan dạ, dũng cảm, ông đã cùng đồng đội gọi điện báo yêu cầu pháo của quân ta bắn yểm trợ để ông tiến vào trung tâm trận địa. Khi lên được đến nơi, ông Chu Văn Mùi vừa đảm nhận thông tin liên lạc giữa trung đoàn trưởng với chỉ huy đại đoàn, vừa chiến đấu bảo vệ đồng đội bị thương và dùng điện đài chỉ mục tiêu cho pháo binh ta diệt địch. Nhờ đó, quân ta đánh bật hết các đợt tấn công của quân địch.

Ông Mùi kể do phải liên lạc liên tục, chiếc máy điện thanh ông dùng gần hết pin khiến thông tin không được chuẩn xác. Nhanh trí, ông đã tìm cách tiếp cận một chiếc dù mà địch tiếp tế đêm hôm trước, liều mình bò lên khỏi hầm kéo vào. Thật may mắn, trong dù có một hộp pin dùng được cho máy điện thanh của ông.

Khi pin được thay thế, sóng điện phát lên khỏe hẳn, các máy của đại đoàn đều liên lạc được tín hiệu từ đồi A1. Tuy nhiên, việc tín hiệu đang yếu tự nhiên mạnh lên khiến các đồng chí trong đại đoàn nghi ngờ là máy của địch. Chỉ huy ra lệnh tất cả các máy tạm đình chỉ, không liên lạc với máy của ông Chu Văn Mùi.

Cuối cùng, sau nhiều lần kiểm tra bằng những tín hiệu, mật mã, thông tin nghiệp vụ chuyên môn, chỉ huy đại đoàn mới tin tưởng và tiếp tục chỉ huy đồng chí Mùi tiếp tục chiến đấu.

Một kỷ niệm nữa ông không thể quên đó là khi cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, ngày 4/4/1954, ông nhận được lệnh đi tìm Trung đoàn trưởng Nguyễn Hùng Sinh, ông nhanh chóng quàng chiếc máy vô tuyến điện nặng hơn 20kg vào vai nhưng không thể đứng lên được, vì đã một ngày một đêm không ăn, không uống.

Ráng hết sức lực, ông đeo chiếc máy vô tuyến điện và đi tìm trung đoàn trưởng. Khi tìm được trung đoàn trưởng, nhờ chiếc máy vô tuyến điện này mà đường dây liên lạc từ trung đoàn trưởng đến đại đoàn được nối lại trên đồi A1. Dù đang bị thương, nhưng Trung đoàn trưởng Nguyễn Hùng Sinh vừa chỉ huy, vừa trực tiếp chiến đấu, đánh lùi một đợt phản kích của địch, khôi phục được trận địa của ta.

Học sinh Trường THCS Thượng Lan, huyện Việt Yên, nghe Anh hùng Chu Văn Mùi kể chuyện. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Ông Chu Văn Mùi không bao giờ quên giờ phút thiêng liêng ấy, khi ông báo cáo "Hùng Sinh vẫn còn, Hùng Sinh bị thương"…, đầu dây bên kia vang lên tiếng nói rất to "Hoan hô đồng chí Chu Văn Mùi, tặng Huân chương chiến công hạng Nhất cho Chu Văn Mùi."

Sau đó, khi biết được tinh thần chiến đấu của Chu Văn Mùi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định công nhận đảng viên chính thức cho ông trước thời hạn 5 tháng, tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ngày 31/8/1955 ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

Năm 1972, ông Mùi được cử đi học rồi về làm cán bộ phụ trách Tiểu đoàn Thông tin 18, tham gia các chiến dịch Đường 9 Khe Sanh, Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông được giao nhiệm vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 140, sau đó ông tiếp tục công tác trong quân đội. Đến năm 1980, theo yêu cầu của Quân đoàn I, ông Chu Văn Mùi được điều về làm Hiệu trường Trường Văn hóa Quân đoàn và đến năm 1986 ông nghỉ hưu.

Nghỉ hưu trong Quân đội, nhưng ông lại bước vào “chiến đấu” trên một mặt trận mới, với vai trò là Chủ nhiệm Hợp tác xã Sơn Hà. Anh hùng Chu Văn Mùi kể vừa nghỉ hưu, mấy hôm sau Bí thư chi bộ thôn đã sang ngỏ lời bảo ông làm Chủ nhiệm Hợp tác xã. Sau buổi họp dân, được người dân bầu làm Chủ nhiệm Hợp tác xã, ông coi đây cũng là trách nhiệm, bởi ông đi xa bao năm, chưa có đóng góp gì cho chính làng quê mình. Sau 37 năm rong ruổi khắp các chiến trường từ Bắc vào Nam, về sống trong tình cảm thân thương của xóm làng, lòng ông vui phơi phới.

Lúc đó quê hương ông còn vô vàn khó khăn, điện, đường, trường, trạm đều thiếu thốn. Với vai trò Chủ nhiệm Hợp tác xã, ông Mùi đã cùng các thành viên giúp nhân dân kéo điện về làng, xây dựng trường học, trạm bơm, làm cầu, làm đường. Đồng thời, ông cùng Ban Chủ nhiệm Hợp tác xã vận động người dân đưa nhiều giống lúa, ngô mới vào sản xuất để tăng năng suất và thu nhập. Nhờ đó, đời sống nhân dân ngày càng khá lên, hộ nghèo trong thôn giảm dần.

Không chỉ hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao trên mọi cương vị, trong cuộc sống đời thường, Anh hùng Chu Văn Mùi là người chồng, người cha, người ông mẫu mực. Đến nay, gia đình ông có 3 người con đều có cuộc sống hạnh phúc, sung túc, 10 người cháu đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành./.

Nguyễn Văn Ty - Anh hùng đánh bộc phá

     Nguyễn Văn Ty là người anh hùng đánh bộc phá nổi tiếng trong trận đánh đồi Độc Lập của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Để góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 7/5/1954, lừng lẫy năm châu, anh hùng Nguyễn Văn Ty đã anh dũng hy sinh “không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”, để mở đường cho bộ đội ta tiến lên tiêu diệt cứ điểm đồi Độc Lập.
Anh hùng Nguyễn Văn Ty
* Người chiến sĩ liên lạc dũng cảm

Đồng chí Nguyễn Văn Ty sinh năm 1931, trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Quảng Minh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang (nay là xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang).

Nguyễn Văn Ty có vóc dáng nhỏ bé, khuôn mặt thanh tú. Đến tuổi thanh niên, thấy trai làng tấp nập vào bộ đội, đồng chí cũng ba lần xung phong vào bộ đội nhưng đều bị từ chối. Các đồng chí tuyển quân khuyên: “Em sức khỏe yếu vào bộ đội khó khăn, gian khổ nhiều, hành quân đường dài làm sao mang nổi súng đạn". Nhưng Nguyễn Văn Ty cứ năn nỉ xin vào bộ đội bằng được. Cha mẹ ngăn cản mấy, bạn bè khuyên nhủ nhiều cũng không lay chuyển được quyết tâm đi chiến đấu của chàng trai trẻ. Mãi đến lần thứ tư, ước mong vào bộ đội của đồng chí mới được đơn vị chấp nhận.

Được trở thành anh “Bộ đội Cụ Hồ", đồng chí say sưa luyện tập kỹ thuật, chiến thuật của người lính bộ binh, lại chịu khó luyện tập thể lực nên sức khỏe ngày một dẻo dai. Ngày 28/8/1949, Đại đoàn 308 chủ lực của quân đội ta thành lập. Nguyễn Văn Ty được đứng trong đội hình của Trung đoàn 88 thuộc Đại đoàn 308.

Từ ngày nhập ngũ (tháng 2/1949) đến tháng 7/1954, Nguyễn Văn Ty đã tham gia 7 chiến dịch lớn, với 35 trận đánh, trên chiến trường Bắc Bộ. Với tinh thần dũng cảm, táo bạo, trận đánh nào, đồng chí cũng kiên quyết tiến công, hoàn thành tốt nhiệm vụ, dù bị thương vẫn không rời trận địa.

Năm 1950, trong chiến dịch Biên giới, Đại đoàn 308 có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt địch ở dãy điểm cao phía Nam Đông Khê, Nà Mục, Chốc Ngà, Khâu Áng, Khâu Luông, phía Đông đường số 4 gần Đông Khê. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt suốt hai ngày đêm (3 và 4/10/1950). Địch từ trên núi cao tập trung hỏa lực bắn xả xuống chân núi như mưa, ngăn cản bộ đội ta tiến công. Nguyễn Văn Ty dũng cảm xung phong dẫn đầu tiểu đội lên chiếm lĩnh điểm cao. Gần đến ụ súng của địch, bị thương vào chân phải, đồng chí lấy chân trái giẫm đè lên vết thương cho máu đỡ chảy và tiếp tục chiến đấu. Còn cách địch 20 mét, Nguyễn Văn Ty dùng hết sức ném lựu đạn vào ụ súng của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 5 tên địch, tạo điều kiện cho đơn vị chiếm lĩnh điểm cao. Tiêu diệt xong địch đồng chí mới băng bó vết thương.

Tháng 12/1951, trong Chiến dịch Hoà Bình, khi đánh trận Tu Vũ mở màn cho chiến dịch, đồng chí làm tổ trưởng tổ thông tin liên lạc. Trận đánh diễn ra gay go, ác liệt. Cả tổ bị thương vong gần hết, chỉ còn mình Nguyễn Văn Ty phải làm nhiệm vụ thay cả 4 người. Dưới làn mưa đạn dữ dội của địch, đồng chí vẫn bình tĩnh, dũng cảm, chạy lên xuống liên tục 18 lần, băng qua cửa mở, truyền đạt mệnh lệnh của chỉ huy chính xác, kịp thời, góp phần cùng đơn vị tiêu diệt cứ điểm Tu Vũ.

* Anh dũng hy sinh đánh bộc phá mở đường

Quang cảnh chung khu đồi Độc Lập, lá cờ Quyết chiến quyết thắng, phần thưởng cao quý của Hồ Chủ tịch đang được các chiến sĩ xung kích phất cao trên nóc hầm chỉ huy địch sau khi các lực lượng phối hợp tiêu diệt hoàn toàn vị trí này ngày 15/3/1954. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Trong trận đánh đồi Độc Lập của Chiến dịch Điện Biên Phủ, Nguyễn Văn Ty là Tiểu đội trưởng Tiểu đội đánh bộc phá của Trung đoàn 88, Đại đoàn 308, có nhiệm vụ phụ trách mở cửa, tiêu diệt cứ điểm đồi Độc Lập.
3 giờ 30 phút ngày 15/3/1954, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ hạ lệnh tiến công. Những khẩu lựu pháo 155mm và sơn pháo 75mm gầm lên, nhả đạn tới tấp vào cứ điểm đồi Độc Lập. Cả ngọn đồi chìm ngập trong khói lửa. Các ổ súng máy của địch hầu như bị tê liệt. Trời tối đen như mực, mưa tầm tã.

Đại đội Tô Văn của Trung đoàn 88 tuy đã dọn trên 100 mét rào dây thép gai, nhưng vẫn chưa tiến vào được bên trong cứ điểm. Trời tối đen như mực, mưa tầm tã, địch lại tập trung hỏa lực bắn dữ dội về hướng cửa mở.

Những quả bộc phá của tiểu đội thứ hai nối tiếp nhau nổ vang, mỗi lúc nhích dần lên tiến gần vào cứ điểm địch. Khi tiểu đội thứ hai hoàn thành nhiệm vụ thì Nguyễn Văn Ty bắt đầu dẫn tiểu đội của mình vượt lên. Trước đó, khi nằm phía cuối Trung đội, theo dõi những ánh lửa bộc phá, đồng chí thấy nó cứ dần dần chếch đi và không khỏi lo lắng, chắc do trời tối lại mưa to nên đường mở bị lệch chăng. Từng làm liên lạc viên cho Ban chỉ huy Đại đội Tô Văn trong các trận đánh đồi Hồi Hạc, Tu Vũ, Nghĩa Lộ, Nguyễn Văn Ty đã thấy rõ tác hại của việc mở sai hướng.

Không chậm trễ, lợi dụng ánh sáng một quả pháo sáng của địch, Nguyễn Văn Ty ngắm chuẩn hướng lô cốt địch, rồi lùa ống bộc phá của mình vào hàng rào dây thép gai thật khéo léo và mau lẹ. Một tiếng nổ vang, đồng chí tiếp tục dẫn luôn người chiến sĩ đánh bộc phá thứ hai của tổ mình lao lên, đặt tiếp quả thứ hai rồi quả thứ ba, thứ tư, thứ năm… theo đúng hướng mình vừa tự chỉnh lại. Cả 11 chiến sĩ của tiểu đội Nguyễn Văn Ty đều đặt bộc phá đúng hướng lô cốt địch, hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Lô cốt địch hiện ra ngày một gần. Nhưng đúng lúc đó, quân ta hết bộc phá. Trận địa chìm lặng hẳn đi. Bấy giờ pháo binh địch ở Mường Thanh và các cỡ súng của địch trên cứ điểm đồi Độc Lập như được dịp phục hồi, thi nhau bắn phá. Mưa mỗi lúc lại một to hơn. 5 phút, 10 phút rồi 20 phút… vẫn chưa bắt liên lạc được với các bộ phận bộc phá của tiểu đoàn, trung đoàn ở phía sau lên tiếp viện. Rồi 30 phút... Không thể đợi hơn được nữa, Nguyễn Văn Ty quyết định chạy ngược trở lại. Vừa lúc đó, đồng chí gặp Trung đội trưởng đem ba quả bộc phá của các đồng đội bị thương lên. Ngay lập tức, Nguyễn Văn Ty ôm cả ba quả bộc phá chạy lên mở đường.

Một quả nổ như sét đánh, chấm dứt 30 phút căng thẳng của trận đánh. Tới quả thứ hai, đồng chí kiểm tra lại thì thấy kíp nổ đã rơi mất từ bao giờ. Thế là Nguyễn Văn Ty buộc lựu đạn vào, giật nổ thay kíp. Quả bộc phá thứ hai được giật nổ bằng lựu đạn đã quét thêm 2 mét dây thép gai nữa. Đồng chí quay trở lại đem quả bộc phá thứ ba, cũng đã mất kíp nổ phải thay thế bằng một quả lựu đạn, lên đánh tiếp. Nhưng khi nhìn lên, bãi dây thép gai của địch vẫn còn dày tới 20 mét, Nguyễn Văn Ty quyết định chạy ngược trở lại đón bộc phá của tiểu đoàn. Đường hào chật chội, để tranh thủ thời gian, đồng chí cứ băng băng chạy trên miệng hào giao thông mặc cho đạn địch nổ xung quanh mình. Trong đầu lúc này chỉ có mấy tiếng: bộc phá… bộc phá…

Nguyễn Văn Ty chạy về gần tới Sở chỉ huy của tiểu đoàn thì gặp một đơn vị đang tiến lên tiếp viện. Ngay lập tức, đồng chí quay lại dẫn tiểu đội bộc phá trở lên tiếp tục đánh mở đường. Nguyễn Văn Ty dẫn một chiến sĩ lên đặt bộc phá. Quả bộc phá mới nổ một tiếng thật giòn. Và cứ như thế, đến quả bộc phá thứ sáu thì chỉ còn cách lô cốt của địch có 5 mét.

Trong lô cốt địch, một khẩu đại liên bắn loạn xạ ra xung quanh. Các khẩu súng máy của quân ta đem lên tới đó đều bị bùn đất nhồi tắc hết, không thể yểm hộ cho những chiến sĩ lên đánh quả bộc phá cuối cùng nữa. Nguyễn Văn Ty đề nghị Trung đội trưởng cho đồng đội ở phía sau đưa lựu đạn đem lên cho mình. Chỉ ít phút sau, đồng đội đã chuyển lên cho đồng chí gần chục quả lựu đạn. Nguyễn Văn Ty lấy một quả, nhằm thẳng lỗ châu mai của địch đang tóe lửa phía trước, mím môi ném tới. Ổ đại liên địch bị dập tắt. Quả bộc phá thứ 7, rồi thứ 8 nổ xong, hàng rào thép gai trước lô cốt địch chỉ còn cách gần 2 mét.

Nguyễn Văn Ty vừa nói xong với người chiến sĩ đánh quả bộc phá cuối cùng thì bất ngờ một quả lựu đạn nổ tung ở ngay trước mặt. Đồng chí thấy mặt mũi mình rát bỏng, hai mắt tối sầm lại. Máu chảy đầy mặt, mắt trái bị thương, đồng chí dùng tay căng mắt phải cố quan sát phía trước, chỉ huy người chiến sĩ thứ 9 lên đánh quả bộc phá cuối cùng, phá tung lớp hàng rào còn lại, mở thông cửa cho quân ta lao lên diệt gọn lô cốt địch.

Khi quả bộc phá gầm lên một tiếng rung chuyển cả trận địa thì cũng là lúc Nguyễn Văn Ty kiệt sức ngã xuống, anh dũng hy sinh ngay giữa đường mới mở. Đường đã mở thông, bộ đội ta ào lên đánh chiếm các mục tiêu. 6 giờ 30 phút ngày 15/3/1954, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm đồi Độc Lập. Cánh cửa thứ hai của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được mở.

Trong quá trình chiến đấu, đồng chí Nguyễn Văn Ty đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhì, Huân chương Chiến công hạng Ba và 4 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua.

Ngày 31/8/1955, đồng chí Nguyễn Văn Ty được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương Quân công hạng Ba và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

* Bộc phá của anh hùng Nguyễn Văn Ty

Hiện nay, trong bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đang lưu giữ và trưng bày một trong số ống bộc phá mà đơn vị đồng chí Nguyễn Văn Ty dùng trong trận đánh đồi Độc Lập.

Còn vỏ bộc phá bằng sắt gò tròn hình ống, dài 75,5cm, đường kính 4,5cm, của đồng chí Nguyễn Văn Ty trong trận đánh đồi Độc Lập, đang được Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam quản lý, mang số đăng ký BTQĐ: 2666-K3-804.

Đặc biệt, tháng 4/2024, nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Văn Ty được thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên) đặt tên cho một trong 24 tuyến đường mang tên các Anh hùng được phong tặng trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ./.